Những khó khăn trong đào tạo theo học chế tín chỉ tại trường Đại học Lao động - Xã hội (ThS. Nguyễn Thị Sinh Chi - Khoa CNTT)
NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI
ThS. Nguyễn Thị Sinh Chi - Khoa Công nghệ thông tin
Trong giai đoạn đất nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập với khu vực và thế giới, yêu cầu đặt ra với nền giáo dục Việt Nam là phải nâng cao chất lượng đào tạo người học nói chung và đào tạo đại học nói riêng. Để nâng cao chất lượng đào tạo thì việc đổi mới phương thức đào tạo cho phù hợp với mô hình chung của quốc tế là nhiệm vụ cấp thiết hàng đầu của giáo dục đại học Việt Nam. Nghị quyết của Chính phủ số 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020 đã nêu rõ: "Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ở nước ngoài".
Năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ban hành “Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ” (Gọi tắt là Quy chế 43). Theo chủ trương của Bộ, năm 2011 là hạn cuối cùng để các trường liên quan phải chuyển đổi sang hệ thống đào tạo mới này. Đến năm 2012 Bộ lại ban hành Thông tư 57 để sửa đổi, bổ sung một số điều của Qui chế 43 và lại tiếp tục "thúc dục" toàn bộ hệ thống đào tạo đại học phải chuyển nhanh sang đào tạo theo học chế tín chỉ. Thế nhưng, qua thời gian thực hiện thí điểm ở một số trường đại học trên cả nước, có không ít những vấn đề đặt ra.
Thực hiện sự chỉ đạo của ngành giáo dục về lộ trình chuyển đổi, năm 2013 Trường Đại học Lao động - Xã hội cũng bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ cho toàn bộ hệ đại học chính qui của tất cả các ngành đào tạo. Trong bài viết này tác giả chỉ muốn điểm lại vài nét chủ yếu của học chế tín chỉ và đưa ra cái nhìn cá nhân về thực trạng việc đào tạo theo học chế tín chỉ của Trường Đại học Lao động - Xã hội thời gian qua.
1. VÀI NÉT VỀ HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (TC), còn gọi là học chế TC, là một phương thức đào tạo tiên tiến trong hệ thống giáo dục đại học trên thế giới. Phương thức đào tạo này ra đời từ năm 1872 tại Đại học Harvard (Hoa Kì). Tiếp sau đó, hệ thống đào tạo này đã được áp dụng ngày càng rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới như các nước Bắc Mĩ, Liên minh Châu Âu, Nhật Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaisia, Indonesia, Ấn Độ, Senegal, Mozambic, Nigeria, Uganda, Camơrun, Trung Quốc, v.v…. Tại Việt Nam cho đến thời điểm này đào tạo theo hệ thống tín chỉ vẫn còn ở giai đoạn thí điểm, hầu hết các trường đại học, cao đẳng đã bắt buộc phải chuyển từ đào tạo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ, có trường làm được 10 năm, có trường chỉ mới làm được vài ba năm, do vậy việc "ngấm" những triết lý cốt lõi của tín chỉ cũng còn nhiều điều chưa thống nhất.
Đào tạo theo hệ thống TC có những khác biệt căn bản với đào tạo theo niên chế. Hệ thống TC cho phép SV đạt được văn bằng đại học qua việc tích luỹ các loại tri thức giáo dục khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định, gọi là TC (credit). Theo Quy chế 43: “Một TC được quy định bằng 15 tiết học lí thuyết; 30-45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-90 giờ thực tập tại cở sở; 45-60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp.Đối với những học phần lí thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một TC, SV phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân”.
Trong hệ thống TC, chương trình đào tạo mềm dẻo và có tính liên thông cao. Chương trình đào tạo bao gồm hai loại học phần: Học phần bắt buộc là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức chính yếu của mỗi chương trình, bắt buộc SV phải tích luỹ. Học phần tự chọn là học phần chứa đựng những nội dung kiến thức cần thiết, nhưng SV được tự chọn theo hướng dẫn của trường nhằm đa dạng hoá hướng chuyên môn. Trong hệ thống này, kiến thức được cấu trúc thành các mô - đun (học phần). Học phần là khối lượng kiến thức tương đối trọn vẹn, thuận tiện cho SV tích luỹ trong quá trình học tập. Thường thì một học phần có khối lượng từ 2 đến 4 TC.
Khi tổ chức giảng dạy theo TC, đầu mỗi học kì, SV được lựa chọn và đăng kí các học phần thích hợp với năng lực và hoàn cảnh của họ nhằm đạt được kiến thức theo một chương trình đào tạo nào đó. Nhà trường căn cứ vào nhu cầu của SV để bố trí giảng viên và sắp xếp thời khoá biểu cho các lớp học phần. Trong đào tạo theo hệ thống TC, kết quả học tập của SV được đánh giá theo quá trình, khác với đào tạo theo niên chế chỉ đánh giá qua kì thi hết môn. Thang điểm để đánh giá kết quả học tập của SV sử dụng thang điểm chữ A, B, C, D (hay thang điểm bốn).
Bản chất của phương thức đào tạo theo hệ thống TC là cá thể hoá việc học tập của người học. Điều này được các nhà nghiên cứu gọi là nguyên lí “tiệc buffet”, tức là SV được tự chọn các học phần để học trong mỗi học kì, mỗi năm học. Cách tổ chức hoạt động theo nguyên lí này đảm bảo cho quá trình đào tạo trong các trường đại học trở nên mềm dẻo hơn, đồng thời cũng tạo khả năng cho việc thiết kế chương trình liên thông giữa các hệ thống đào tạo khác nhau.
2. NHỮNG ƯU THẾ CỦA ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
Trong đào tạo theo hệ thống TC, kết quả học tập của SV được tính theo quá trình tích luỹ từng học phần chứ không phải theo năm học, do đó việc hỏng một học phần nào đó không cản trở quá trình học tiếp tục, SV chỉ học lại các học phần không đạt yêu cầu mà không phải ở lại lớp như trong đào tạo theo niên chế. Vì vậy, đào tạo theo đào tạo theo hệ thống TC có chi phí thấp và hiệu quả cao hơn.
Đào tạo theo hệ thống TC tạo điều kiện cho SV năng động hơn và có khả năng thích ứng tốt hơn những biến đổi nhanh chóng của cuộc sống xã hội hiện đại. Nếu như trong đào tạo theo niên chế, SV hoàn toàn thụ động tuân thủ kế hoạch học tập của nhà trường, thì trong đào tạo theo TC đòi hỏi SV phải chủ động xây dựng cho mình một kế hoạch học tập thích hợp, có hiệu quả cao nhất cho bản thân.
Đào tạo theo hệ thống TC cung cấp cho các trường đại học một ngôn ngữ chung, tạo thuận lợi cho SV khi cần chuyển trường cả trong nước cũng như ngoài nước. Nếu triển khai đào tạo theo hệ thống TC các trường đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ chức những môn học chung cho SV nhiều trường, nhiều khoa, tránh các môn học trùng lặp ở nhiều nơi; ngoài ra SV có thể học những môn học lựa chọn ở các khoa khác nhau. Cách tổ chức nói trên cho phép sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất cho từng môn học.
Đào tạo theo TC tạo ra một loại hình lớp học mới gọi là “lớp học phần”, tức là lớp học tập hợp các SV đăng kí học chung một học phần. Lớp học phần sẽ bao gồm SV nhiều khoá học và nhiều ngành học khác nhau. Đây là cơ hội tốt cho SV giao lưu, học hỏi lẫn nhau và mở rộng các mối quan hệ xã hội.
Với đào tạo theo hệ thống TC, các trường đại học có thể mở thêm ngành học mới một cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị trường lao động và tình hình lựa chọn ngành nghề của SV. Đào tạo theo hệ thống TC cho phép ghi nhận cả những kiến thức và khả năng tích luỹ được ngoài trường lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích SV từ nhiều nguồn gốc khác nhau có thể tham gia học đại học một cách thuận lợi. Về phương diện này có thể nói đào tạo theo hệ thống TC là một trong những công cụ quan trọng để chuyển từ nền đại học mang tính tinh hoa thành nền đại học mang tính đại chúng.
Kết hợp với đào tạo theo hệ thống TC, nếu trường đại học tổ chức thêm những kì thi đánh giá kiến thức và kĩ năng của người học tích luỹ được bên ngoài nhà trường hoặc bằng con đường tự học để cấp cho họ một TC tương đương, thì sẽ tạo thêm cơ hội cho họ đạt văn bằng đại học. Ở Mĩ, trên một nghìn trường đại học chấp nhận cung cấp TC cho những kiến thức và kĩ năng mà người học đã tích luỹ được ngoài nhà trường.
3. MỘT SỐ KHÓ KHĂN KHI TRIỂN KHAI ĐÀO TẠO THEO HỆ THỐNG TÍN CHỈ
Thực tế triển khai đào tạo đào tạo theo hệ thống TC ở các trường đại học cho thấy có không ít khó khăn, vướng mắc.
Khó khăn thường được đề cập đến là công tác điều hành quản lí trong đào tạo theo TC rất phức tạp. Nếu như trong đào tạo theo niên chế, SV học theo một kế hoạch chung theo sự sắp xếp của nhà trường, thì trong đào tạo theo TC, mỗi SV có một kế hoạch học tập riêng nên việc tổ chức điều hành quản lí đào tạo rất phức tạp. SV phải mất nhiều thời gian để lập kế hoạch học tập, đăng kí học phần, điều chỉnh kế hoạch và đăng kí bổ sung. Do những hạn chế về nguồn lực: giáo viên, phòng học, quỹ thời gian, v.v… mà nhìn chung, các trường đại học vẫn chưa thật sự đảm bảo đáp ứng nhu cầu của người học. Mặc dù hiện nay có sự hỗ trợ của hệ thống phần mềm trên mạng máy tính, nhưng trên thực tế SV vẫn phải chờ đợi, chen lấn nhau trong sử dụng máy tính để đăng kí học phần, một số trường không tổ chức cho sinh viên đăng ký tập trung thì cứ mỗi khi đến dịp đăng ký học phần là thường xuyên ngẽn mạng.
Nhìn chung, nhận thức và kĩ năng của SV về đào tạo theo hệ thống TC còn nhiều hạn chế. Qua tham khảo ở một số trường đã tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ từ 5 năm trở lên thì thường có hiện tượng là SV không quen làm việc độc lập, vẫn giữ tư duy dựa vào đội ngũ cố vấn học tập, đội ngũ cán bộ lớp để nắm bắt thông tin của nhà trường, vì vậy mà nhiều SV phàn nàn là không biết trường tổ chức những môn học nào, kế hoạch học tập ra sao, qui chế thì nắm lơ mơ, chương trình đào tạo cũng không nắm được.
Đào tạo theo hệ thống TC làm cho việc tổ chức sinh hoạt lớp, sinh hoạt đoàn thể gặp nhiều khó khăn do khó gắn kết SV, khó bố trí lịch sinh hoạt vì mỗi SV đều có một thời khoá biểu riêng. Mặt khác, việc tổ chức cho SV đi thực tập, thực tế cũng gặp nhiều trở ngại vì các học phần SV đăng kí học rất khác nhau nên nếu SV đi thực tập, thực tế thì phải nghỉ học các học phần khác. Ngoài ra, một khó khăn không nhỏ là trong đào tạo theo TC rất khó bù giờ, đổi lịch vì mỗi SV có một thời khoá biểu riêng nên đổi sang học buổi khác thì SV này chấp nhận SV khác lại không chấp nhận (vì bận học môn khác).
Đào tạo theo hệ thống TC đòi hỏi giảm thời gian lên lớp, tăng thời gian tự học, tự nghiên cứu của SV. Với đặc trưng này, SV sẽ có thời gian tự chủ nhiều hơn. Đây là cơ hội cho SV có thể học hai ngành song song, học thêm ngoại ngữ, tin học hoặc đi làm thêm. Tuy nhiên, đặc điểm này cũng có thể dẫn đến tình trạng SV không sử dụng tốt thời gian ngoài giờ lên lớp và chất lượng học tập kém.
Một vấn đề đặt ra là phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học trong đào tạo theo TC. Nếu không thì có thể xảy ra nguy cơ là đào tạo theo TC có chất lượng kém hơn đào tạo theo niên chế (bởi vì thời gian lên lớp trong đào tạo theo TC ít hơn đào tạo theo niên chế). Nguyên lí của đào tạo theo hệ thống TC cho thấy: Nhiệm vụ chính của nhà trường đại học không phải là cung cấp kiến thức, mà là trang bị cho SV phương pháp học tập, phương pháp tư duy, phương pháp nghiên cứu. Đây chính là sự thay đổi căn bản về cách dạy và cách học mà đào tạo theo TC cần hướng tới.
Như trên đã cho thấy, đào tạo theo hệ thống TC cho phép SV quyết định tiến độ đào tạo tùy khả năng và điều kiện của bản thân SV. Theo đó có thể cho phép SV rút ngắn thời gian đào tạo. Nhờ vậy, không những SV và gia đình họ tiết kiệm được thời gian, chi phí cho bản thân, mà còn đem lại nhiều lợi ích đối với nhà trường và xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, do mỗi SV có một kế hoạch học tập khác nhau nên có thể xảy ra tình trạng bị trùng thời khoá biểu giữa một số học phần nên SV buộc phải giảm bớt số học phần hoặc phải điều chỉnh kế hoạch học tập để chuyển sang học học phần khác. Điều này cũng làm cho SV khó rút ngắn thời gian đào tạo. Mặt khác, việc tổ chức thực tập thực tế ngoài trường cũng dẫn đến tình trạng SV đã hoàn thành các học phần lí thuyết nhưng vẫn không đủ điều kiện tốt nghiệp vì phải chờ để đi thực tập.
4. THỰC TRẠNG VIỆC ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI.
Trường Đại học Lao động - Xã hội đã thực hiện việc chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ từ năm 2013, đến thời điểm này đang có 03 khóa sinh viên được tổ chức đào tạo theo phương thức này. Theo qui chế mới nhất của trường thì thời gian hoạt động giảng dạy là từ 6h30 đến 20h hàng ngày; mỗi năm có 02 học kỳ chính (mỗi học kỳ 15 tuần học và 03 tuần thi) và 01 học kỳ phụ còn gọi là kỳ hè (gồm 5 tuần học và 1 tuần thi). Chương trình đào tạo của tất cả các ngành đều có thời lượng là 130 tín chỉ (không kể GDQP và GDTC) được thiết kế để triển khai đào tạo 8 học kỳ (4 năm). Cấu trúc của chương trình đào tạo gồm 2 khối kiến thức là Giáo dục đại cương (khoảng 30 tín chỉ) và Giáo dục chuyên nghiệp (khoảng 100 tín chỉ).
Sau 3 năm triển khai thực hiện đã cho thấy còn một số khó khăn và bất cập khi áp dụng vào thực tế tổ chức quá trình đào tạo của chúng ta:
Một là, Học chế tín chỉ chưa triệt để.
- Về chương trình, giáo trình: Việc xây dựng chương trình đào tạo mặc dù đã hết sức cố gắng, song do điều kiện thời gian gấp gáp nên có vẻ như chương trình vẫn còn nhiều bất cập, số lượng các học phần (nhất là học phần tự chọn) còn quá ít dẫn đến sinh viên không thể có điều kiện để "đa dạng hóa hướng chuyên môn hoặc được tự chọn tùy thích". Thậm chí học kỳ 1 và học kỳ 2 các em chả cần phải chọn gì cả, trường sẽ đăng ký hộ. Bên cạnh đó do mới chuyển từ niên chế sang đào tạo theo tín chỉ nên phần lớn nội dung và thời lượng các học phần chưa được thiết kế lại, vẫn cảnh bình mới rượu cũ. Việc qui định 1 tiết tín chỉ = 1,5 tiết niên chế đòi hỏi giảng viên phải thiết kế lại bài giảng, tức là phải có sự thay đổi về chất môn học, tăng lượng thông tin.
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ yêu cầu sinh viên phải chủ động, phải tự học nhiều hơn; tuy nhiên để làm được điều này thì trường phải có thư viện theo đúng nghĩa, các môn học phải có đề cương chi tiết, đủ giáo trình, tài liệu tham khảo, ... Trên thực tế ở trường ta thì những nhân tố trên đều thiếu, có thể nói là chưa có gì khác so với giai đoạn trước năm 2013 (khi vẫn còn đào tạo theo niên chế). Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng có lẽ nguyên nhân chính của việc thiếu các điều kiện trên là do kinh phí còn hạn chế, qua thăm dò của tác giả thì trong khoảng gần 2 năm trở lại đây thư viện có rất ít sách và giáo trình được in ấn bổ sung.
- Việc đăng ký nhập học: Theo qui chế của trường thì sau khi sinh viên hoàn thành các thủ tục nhập học, Trường phải cấp cho họ (1) Thẻ sinh viên, (2) Sổ đăng ký học tập, (3) Phiếu nhận cố vấn học tập, (4) sổ tay sinh viên và các tài liệu liên quan khác, ... Tuy nhiên chúng ta lại chưa có các tài liệu nói trên, cũng không thấy mẫu của các loại tài liệu này được phổ biến tại website của trường, ngay cả thẻ sinh viên cũng chỉ được cấp sớm nhất khi sinh viên đã học gần hết học kỳ đầu.
- Đăng ký khối lượng học tập và tổ chức lớp học tín chỉ: Theo qui định tại Điều 10 của qui chế đào tạo theo tín chỉ của trường thì "Đầu mỗi năm học, Nhà trường thông báo lịch trình học dự kiến cho từng chương trình trong từng học kỳ, danh sách học phần bắt buộc và tự chọn sự kiến sẽ dạy, đề cương chi tiết, điều kiện ràng buộc để được đăng ký cho từng học phần, lịch kiểm tra, thi, hình thức thi, kiểm tra, ...". Nhưng thực tế thì sinh viên chưa được cung cấp đầy đủ các thông tin, điều đó làm cho sự chủ động của các em cũng bị hạn chế rất nhiều. Cũng theo qui định tại điều 10 thì sinh viên (chủ thể quan trọng của trường) sẽ có 3 hình thức đăng ký (sớm, bình thường, muộn) nhưng trên thực tế phòng Đào tạo không thể thực hiện được, việc tổ chức đăng ký học vẫn là một hình thức "ra lệnh" hoặc "ban ơn" của phòng Đào tạo đối với các em. Qua theo dõi thực tế các sinh viên của trường thì mỗi khi đăng ký học phần là phải chuẩn bị máy tính tốt, mạng tốt, ... và nếu chỉ cần chậm hoặc có nhầm lẫn thì sẽ phải làm đơn trình bẩm với phòng Đào tạo rất phức tạp. Việc đăng ký khối lượng học tập của sinh viên chỉ được chấp thuận khi có chữ ký chấp thuận của cố vấn học tập, ... nhưng hình như nó cũng không cần thiết.
Hai là, cố vấn học tập chưa thể hiện vai trò của người hướng dẫn, chất lượng hoạt động còn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Hiện tại, Trường có 144 cán bộ, giảng viên làm cố vấn học tập cho các lớp khóa 9, khóa 10 và khóa 11 ở Trụ sở Hà Nội và Cơ sở Sơn Tây. Qua thực tế hoạt động cho thấy cũng bộc lộ nhiều hạn chế cần được khẩn trương khắc phục, đó là:
Nhiều cố vấn học tập chưa nắm vững chức năng và sử dụng thành thạo phần mềm IU của trường, vì vậy chưa thực hiện được tốt việc hỗ trợ đăng ký học tập, hủy học phần, đăng ký lại học phần cho sinh viên. Nguyên nhân chính là do phần mềm chưa hoàn thiện, vừa làm vừa mò mẫm nên cũng khó tiếp cận. Vào những thời điểm đăng ký học phần, thường xảy ra tắc nghẽn, hơn nữa khi sinh viên muốn hủy, đăng ký lại học phần đều phải làm đơn và có chữ ký của cố vấn học tập chứ không thực hiện hủy hoặc đăng ký lại trên phần mềm tự động.
Chất lượng công tác tư vấn học tập còn chưa được cao, chưa có nhiều kinh nghiệm làm cố vấn học tập, công tác tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ cố vấn học tập còn chưa được coi trọng. Trên thực tế sinh viên hoàn toàn tự quyết định việc đăng ký các học phần trên cơ sở lịch học mà phòng Đào tạo thông báo. Sinh viên chỉ liên hệ với cố vấn học tập khi họ đăng ký bổ sung hoặc hủy học phần (vì trường hợp này cần có chữ ký của cố vấn học tập). Việc đăng ký học của sinh viên mang tính ngắn hạn, còn đối với kế hoạch học tập trong vòng 1 năm và toàn khóa thì hầu hết sinh viên chưa có khả năng tính đến.
Ba là, Cơ chế quản lý còn chưa thực sự mềm dẻo, quan điểm làm việc của một số đơn vị chức năng còn chưa có sự chuyển biến, chưa thực sự coi sinh viên và đối tượng phục vụ của trường.
Đại chúng hoá giáo dục đại học và phương châm “học tập suốt đời” đòi hỏi nhà trường phải mở rộng cửa hơn và có cơ chế đào tạo linh hoạt hơn để thoả mãn nhu cầu học tập của mọi công dân bất cứ lúc nào họ có điều kiện đến trường tiếp tục việc học đại học. Dân chủ hoá trong đào tạo và giáo dục lấy người học làm trung tâm đòi hỏi các nhà quản lý cơ sở đào tạo phải có cơ chế quản lý mềm dẻo trong việc tổ chức dạy và học, để đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho người học thiết kế việc học tập theo nguyên lý “tiệc buffet”.
Qua tiếp xúc với nhiều sinh viên và trực tiếp quan sát cho thấy hiện nay tại một số đơn vị chức năng của trường , khi giải quyết công việc vẫn còn mang nặng tư duy quản lý của cấp trên, tư duy hành chính máy móc, chưa thực sự coi giáo dục như là một sự cung cấp dịch vụ. Triết lý cốt lõi của hệ thống tín chỉ là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người học, giành sự khó khăn về cho đơn vị cung cấp dịch vụ đào tạo (nhà trường). Nhưng trên thực tế, các đơn vị chức năng đang cố tìm mọi cách để thuận tiện nhất cho mình và đẩy mọi sự khó khăn về phía người học. Khi trường cần gì thì lập tức ban hành một văn bản dưới dạng 1 mệnh lệnh (nếu không thực hiện đúng hạn thì sẽ bị xử lý, ...), nhưng khi các em cần cung cấp bất kỳ một vấn đề gì (kể cả vấn đề đương nhiên trường phải cung cấp) thì cũng phải làm đơn, nộp và chờ được xem xét.
5. GỢI Ý MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ KHẮC PHỤC CÁC KHÓ KHĂN VƯỚNG MẮC KHI THỰC HIỆN ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ.
Chuyển từ đào tạo theo niên chế sang hệ thống tín chỉ là việc phải làm, nên làm; Tuy nhiên trước khi muốn phát huy được tính ưu việt của phương thức đào tạo này thì cần phải làm sao ổn định được chất lượng đào tạo, giữ vững được những giá trị và nền nếp tốt đẹp đã được định hình trong nhiều năm của trường, điều đó cần phải có những biện pháp hết sức cụ thể.
Thứ nhất, cần phải thay đổi nhận thức của CBQL và GV nhà trường
- Phải coi việc thực hiện đào tạo theo tín chỉ là một thực tế, đang vận động theo qui luật khách quan, từ đó xác định rõ trách nhiệm quản lý, triển khai hoạt động đào tạo của trường là nhiệm vụ quan trọng cần đầu tư thích đáng, giải bài toán khó là sức ép của một “thế giới phẳng” đang đặt ra cho cả hệ thống giáo dục nói chung và trường nói riêng.
- Xác định quá trình thực hiện là một chặng đường dài “không được đốt cháy giai đoạn”. Cần xây dựng lộ trình thực hiện phù hợp, trên nền tảng có sự đồng thuận, đóng góp công sức và quyết tâm của toàn thể nhà trường cùng thực hiện lộ trình đã thống nhất. Thực hiện từng lĩnh vực cho hoàn thiện, có sơ kết rút kinh nghiệm, chỉnh sửa bổ sung từ cơ sở vật chất, xây dựng chương trình - nội dung, đề cương bài giảng, giáo trình, bồi dưỡng đội ngũ cố vấn học tập, phương tiện quản lý đào tạo, phương tiện phục vụ dạy và học, cơ sở học tập. Không thực hiện những nội dung trên một nền tảng chưa đảm bảo vững chắc (triển khai đào tạo rộng, nhưng CSVC và phương tiện không đảm bảo,…)
Thứ hai, đảm bảo tính khoa học, hệ thống đồng bộ và toàn diện
- Các hoạt động triển khai cần thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, từ việc quán triệt tinh thần chỉ đạo thực hiện của cơ quan quản lý ngành (Bộ GD&ĐT) đến toàn thể CBQL, GV, CNV nhà trường, về vai trò, tầm quan trọng, trách nhiệm của mỗi người; xác định quyết tâm và sự đồng thuận của toàn trường, đến việc công khai kế hoạch hành động và những mong muốn, kỳ vọng về kết quả đạt được.
- Việc triển khai thực hiện đảm bảo đồng loạt ở tất cả từ các đơn vị quản lý tổ chức đào tạo (P.ĐT, P.KT&ĐBCL, P.CT HS-SV, P.HCTH, P. QTTB,…), đến các đơn vị thực hiện đào tạo (các khoa, Bộ môn,...) sao cho phù hợp với chức trách của các bộ phận và đặc điểm của từng chuyên ngành đào tạo.
- Sắp xếp kế hoạch giảng dạy và học tập thật hợp lý để tạo điều kiện cho GV có điều kiện thuận lợi thực hiện đúng qui định về thời gian dạy giờ và thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học; người học tiết kiệm được thời gian học tập tại lớp, dành nhiều thời gian tự học, tham gia các hoạt động tư vấn, công tác đoàn hội, công tác xã hội… để vừa nâng cao trình độ chuyên môn, vừa đảm bảo mục tiêu đào tạo toàn diện trong nhà trường.
- Có chính sách ưu đãi, động viên khuyến khích với giảng viên, đặc biệt với những GV có trình độ cao để họ giúp đỡ, dẫn dắt GV trẻ nâng cao trình độ chuyên môn, nghiên cứu khoa học và đối với những GV được đào tạo ở nước ngoài, để họ gắn bó lâu dài với trường, dành nhiều tâm huyết xây dựng trường.
Thứ ba, hiện đại hóa cơ sở đào tạo và phương tiện dạy và học
- Tăng cường đầu tư mở rộng cơ sở đào tạo với các trang thiết bị hiện đại đảm bảo môi trường lớp học, phòng học (ánh sáng, âm thanh, máy lạnh, độ thông thoáng,...) tạo thuận lợi nhất cho cả người dạy và người học; tránh tối đa việc di chuyển lớp học quá xa trong một buổi học.
- Xúc tiến xây dựng các phòng thực hành thí nghiệm hiện đại, các trang thiết bị đủ chuẩn để có thể thực hành, thí nghiệm liên tục, nhiều ca trong buổi học.
- Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại đảm bảo cho việc trao đổi giữa GV và SV, giữa cố vấn học tập và SV được thường xuyên, hiệu quả. Đảm bảo thông tin kế hoạch môn học, thời khóa biểu, quản lý kết quả học tập, đăng ký môn học của SV ổn định, chính xác.
Thứ tư, củng cố, phát triển đội ngũ cố vấn học tập chất lượng cao
- Cần xây dựng đội ngũ cố vấn là người thực sự tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm và phải được bồi dưỡng thường xuyên về nghiệp vụ và những yêu cầu khi có sự thay đổi.
- Cần xây dựng qui chế hoạt động và chính sách hỗ trợ thích đáng về vật chất và thời gian với những cố vấn học tập, để họ phát huy hết năng lực giúp SV với hiệu quả cao.
Thứ năm, về chương trình - nội dung tài liệu hỗ trợ đào tạo
- Đầu tư thích đáng về vật chất và tinh thần cho những GV có trình độ, có kinh nghiệm xây dựng chương trình và nội dung các học phần đảm bảo các yêu cầu: Đảm bảo tính khoa học, theo hệ thống lôgic trong các ngành và chuyên ngành học; nội dung các học phần có dung lượng vừa phải, thể hiện ngắn gọn các nội dung cốt lõi của từng học phần và liên kết chặt chẽ với nhau xuyên suốt nội dung toàn học phần; phân bổ thời gian cho các học phần hợp lý, đảm bảo cho người học có điều kiện tham gia kiến thiết nội dung mỗi học phần; chương trình và nội dung phải nhằm đạt được mục tiêu gắn với các cơ sở sử dụng nhân lực nói riêng và nhu cầu xã hội nói chung.
- Đầu tư xây dựng cơ sở thư viện hiện đại của trường, tủ sách chuyên môn của khoa có đủ tài liệu cần thiết liên quan đến ngành và chuyên ngành đào tạo, để sinh viên có cơ hội chủ động, độc lập thực hiện quá trình học tập.
Đào tạo theo niên chế là dành quyền quyết định việc đào tạo cho cơ sở đào tạo, người học chỉ "nhắm mắt" làm theo sự dẫn dắt của nhà trường từ lúc nhập học đến lúc tốt nghiệp. Khi chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ có nghĩa là ta chấp nhận trao quyền dân chủ cho người học quyết định lộ trình thích hợp nhất để tích lũy kiến thức. Quyền dân chủ ấy chẳng những được thể hiện qua từng tiết học, từng môn học, mà còn phải được hiện diện qua việc hoạch định kế hoạch học tập của họ: họ phải biết những việc đang làm và sẽ làm để có thể chủ động xác định phương hướng học tập và nghiên cứu cho chính mình trong suốt quá trình đào tạo. Muốn đạt được như vậy thì kể cả người thầy và các nhà quản lý giáo dục cũng phải xác định lại vai trò của mình để có những cơ chế quản lý mềm dẻo phù hợp. Thực tế triển khai ở Trường Đại học Lao động - Xã hội thời gian qua đã cho thấy việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết, sẵn sàng chuyển đổi là vấn đề hết sức quan trọng. Mặc dù còn có một số khó khăn nhất định nhưng với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, chúng ta tin sẽ có thể khắc phục được trong thời gian tới.