Chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Trường Đại học Lao động – Xã hội lần thứ XXV nhiệm kỳ 2020 - 2025

Tài nguyên-Tài nguyên nghiên cứu

Biện pháp nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học cho sinh viên Trường Đại học Lao động - Xã hội trong đào tạo theo học chế tín chỉ (GV: Hoàng Thị Hương - BM GDTC-QP)
(08/08/2016)

BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI  TRONG ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ

Giảng viên: Hoàng Thị Hương

Đơn vị: Bộ môn GDTC – QP

1.     Đặt vấn đề

 Nghiên cứu khoa học (NCKH) là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình đào tạo ở các trường Đại học và cao đẳng. Đây cũng là hình thức dạy học đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo của nhà trường trong đào tạo theo học chế tín chỉ như hiện nay. Chính vì thế việc tổ chức rèn luyện cho sinh viên kỹ năng hoạt động NCKH đã trở thành vấn đề cấp thiết, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học giáo dục trong và ngoài nước

Hoạt động NCKH được đưa vào chương trình đào tạo bậc đại học với mục tiêu cơ bản là hình thành nhân cách người cán bộ tương lai một cách toàn diện, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội

Hoạt động  NCKH mang lại những ý nghĩa thiết thực cho sinh viên. Bằng nhiều hình thức khác nhau như viết tiểu luận, báo cáo thực tập, làm khóa luận, NCKH sẽ rèn luyện cho sinh viên khả năng tư duy sáng tạo, khả năng phê phán, bác bỏ hay chứng minh một cách khoa học những quan điểm, rèn luyện kỹ năng phân tích, tổng hợp kiến thức, tư duy lôgic, xây dựng tinh thần hợp tác. Trên cơ sở đó NCKH  sẽ tạo ra những bước đi ban đầu để sinh viên tiếp cận với những vấn đề mà khoa học và cuộc sống đang đặt ra, gắn lý luận với thực tiễn, củng cố tri thức đã học, phát triển khả năng độc lập tự nghiên cứu, tự học, nâng cao trình độ hiểu biết, phát triển óc tư duy khoa học, hình thành kĩ năng NCKH, rèn luyện các phẩm chất của nhà nghiên cứu, góp phần giáo dục toàn diện cho sinh viên

Tham gia NCKH giúp sinh viên củng cố đào sâu và mở rộng tri thức,kĩ năng, kĩ sảo đã tích lũy được; mở rộng tầm hiểu biết, đồng thời giúp sinh viên nắm được các phương pháp, cách thức tổ chức hoạt động NCKH, tác phong lề lối làm việc, khả năng giao tiếp và niềm tin khoa học. Bên canh đó tham gia NCKH là cơ hội để sinh viên thể hiện năng lực của bản thân, rèn luyện các kĩ năng mềm như kĩ năng làm việc nhóm , kĩ năng quản lý thời gian, kĩ năng thuyết trình.... Nhờ đó sinh viên có cơ hội mở rộng kiến thức và bước đầu hình thành các phẩm chất cần thiết của nhà nghiên cứu. Vì vậy tham gia NCKH không  những là quyền lợi thiết thực của cá nhân sinh viên, mà là một trong những giải pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà hoạt động NCKH của sinh viên trường Đại học Lao đông – Xã hội hiện nay chưa đạt hiệu quả cao còn nhiều tồn tại và hạn chế. Vì vậy, đánh giá thực trạng NCKH của sinh viên trường Đại học Lao động – Xã hội là việc làm hết sức cần thiết, từ đó đưa ra những biện  pháp hợp lý để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học cho các em sinh viên

2.     Thực trạng về công tác NCKH của sinh viên trường Đại học Lao động – Xã hội

Đối với sinh viên thực hiện một nghiên cứu là một công việc khá phức tạp thậm chí là khó khăn đòi hỏi người nghiên cứu phải có lòng đam mê khoa học, có óc tư duy sáng tạo, suy nghĩ logic cũng như niềm đam mê công việc.Khác với những đề tài nghiên cứu của thạc sĩ, tiến sĩ đề tài nghiên cứu của sinh viên còn hạn chế về vấn đề nghiên cứu và quy mô nghiên cứu. Bởi lẽ các bạn sinh viên ngoài việc nghiên cứu còn phải hoàn tất các môn học khác, và sinh viên thì không thể trang trải được các chi phí: đi lại thu thập số liệu, in ấn, và các chi phí khác liên quan đến khảo sát. Hơn nữa, đại bộ phận sinh viên đều là sinh viên xa nhà vấn đề chi phí nghiên cứu và phương tiện đi lại cũng là trở ngại đối với các em

Mặc dù vậy cũng đã có không ít các em sinh viên manh dạn tham gia hoạt động NCKH với sự nỗ lực của bản thân , sự đam mê khoa học  muốn khám phá những cái mới mẻ trong học tập, cộng với sự giúp đỡ nhiệt tình của giảng viên hướng dẫn  mà các em đã đạt được những kết quả  tốt với sự đánh giá cao của các thầy cô trong trường

Bên cạnh đó còn tồn tại rất nhiều các em sinh viên chưa có tính chủ động trong học tập, vẫn còn tư tưởng thụ động. Sinh viên chỉ học bài và ôn bài khi chuẩn bị bước vào các kỳ thi, chỉ "xoay quanh" giảng đường với những bài học trên lớp, chưa chủ động nghiên cứu, tìm tòi cơ hội được học tập, nâng cao kiến thức thực tiễn. Một bộ phận không nhỏ sinh viên hiện nay thiếu sự đam mê học tập, chưa có mục tiêu phấn đấu rõ ràng và không có kế hoạch cụ thể, học tập thì theo kiểu đối phó

Với hình thức học tập theo học chế tín chỉ như hiện nay, không ít sinh viên không tìm hiểu kỹ việc học những khối kiến thức, những môn học trong khung chương trình đào tạo để làm gì và có ý nghĩa như thế nào trong việc xây dựng một hệ thống khối kiến thức tổng quan hoàn chỉnh cho bản thân. Từ đó, nhiều bạn không thể xây dựng được kế hoạch học tập một cách cụ thể và có tính khoa học cao. Thực tế cho thấy, cứ đến giai đoạn đăng ký môn học, nhiều sinh viên chỉ biết đăng ký theo cảm tính hoặc theo kiểu "bạn bè rủ nhau", dẫn đến trường hợp hệ thống các môn học chưa hoàn toàn phù hợp bản thân, khó có thể học tập đạt kết quả tốt. Một nguyên nhân nữa là, với cách đánh giá chủ yếu dựa vào kết quả thi kết thúc môn học, thì việc NCKH được các sinh viên xem là thứ yếu, không cần thiết. ·

Sự hiểu biết của sinh viên về phong trào NCKH trong trường chưa đủ cả về chất và lượng. Chưa có một kênh thông tin nào thường xuyên và mạnh mẽ đưa những nội dung về vấn đề này đến sinh viên, vì thế các bạn sinh viên hầu hết coi NCKH là khá xa vời, chỉ dành cho những sinh viên xuất sắc. Bên cạnh đó, cũng chưa có những cơ chế thu hút sinh viên tham gia các hoạt NCKH. Có không ít các bạn sinh viên chưa hiểu rõ NCKH là như thế nào, không biết bắt đầu từ đâu hay nghiên cứu những gì. Trong chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ những năm gần đây số lượng sinh viên tham gia NCKH của các khoa trong Trường Đại học Lao động- Xã hội có rất ít. Như Khoa Bảo hiểm: Năm 2014 có 9 sinh viên tham gia NCKH, năm 2015 có 2 sinh viên, năm 2016 có 6 sinh viên. Khoa Công tác Xã hội, những năm trước hầu như là không có sinh viên tham gia NCKH, năm 2016 do sự động viên khuyến khích của các giáo viên trong khoa thì đã có 7 em sinh viên tham gia NCKH. Tổng số đề tài được bảo vệ thành công trong những năn gần đây, năm 2013 có 24 đề tài, năm 2014 có 18 đề tài, năm 2015 có 12 đề tài. Đây là con số khá khiêm tốn trong quá trình đạo tạo bậc đại học. Như vậy vấn đề NCKH của sinh viên là một trong những vấn đề còn nhiều tồn tại đòi hỏi Ban giám hiệu nhà trường và các giảng viên trong các Khoa trường Đại học Lao động - Xã hội cần quan tâm và khắc phục

3. Biện pháp nâng cao hiệu quả NCKH cho sinh viên Trường Đại học Lao động – Xã hội

Căn cứ vào mục tiêu đào tạo đại học, từ những khó khăn trên , những đặc điểm hoạt động NCKH của sinh viên. Tôi xin đưa ra một số biện pháp sau

Một là: Tạo phong trào NCKH  cho sinh viên bằng cách tổ chức nhiều cuộc thi, sân chơi trí tuệ nhằm thu hút sinh viên tham gia, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm, kiến thức. Thành lập và duy trì hiệu quả các câu lạc bộ học thuật dành cho sinh viên, phối hợp Ðoàn Thanh niên, các phòng ban chức năng phát huy vai trò của giảng viên trẻ trong việc hướng dẫn sinh viên tham gia các hoạt động NCKH. Tăng cường tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm trao đổi nhằm giới thiệu, trang bị cho sinh viên những phương pháp học tập hiện đại, xây dựng mục tiêu thái độ học tập, nghiên cứu đúng đắn; kết hợp với việc giao lưu giữa sinh viên với những người thành công trong học tập, nghiên cứu khoa học, từ đó thắp sáng ước mơ, hoài bão trong sinh viên. Cần tìm hiểu nguyện vọng của sinh viên trong từng khóa để tập hợp những vướng mắc và cùng giải quyết.

Hai là: Cần có những hoạt động thúc đẩy tuyên truyền, đưa các thông tin về NCKH đến gần với sinh viên hơn nữa, làm cho mỗi sinh viên đều tự ý thức được tầm quan trọng của hoạt động NCKH và NCKH không phải là một hoạt động xa vời mà rất thiết thực với bản thân sinh viên. Hội Sinh viên cần là cầu nối giữa sinh viên và nhà trường, các doanh nghiệp, trung tâm nghiên cứu. Ðây là một kênh thông tin chính thức, có thể bảo đảm tính chính xác trong thông tin giữa các bên. Từ đó phần nào nâng cao chất lượng và tính ứng dụng của các đề tài nghiên cứu khoa học trong sinh viên.

Bản thân mỗi sinh viên cần tích cực, chủ động hơn nữa trong việc lên kế hoạch học tập và nghiên cứu, xác định mục tiêu rõ ràng, tìm hiểu và lựa chọn cho mình một phương pháp học tập, nghiên cứu hiệu quả, phù hợp. Nâng cao khả năng tự học, ngoài thời gian nghe giảng trên lớp thì sinh viên cần tăng cường việc tự học, tự nghiên cứu ở nhà, ở thư viện để mở rộng và đào sâu tri thức, trong đó kỹ năng tự đọc tài liệu rất quan trọng. Tăng cường thảo luận, tích cực trình bày quan điểm và tranh luận.

Ba là: Cần đổi mới phương pháp xác định nhiệm vụ nghiên cứu theo hướng các khoa, bộ môn gợi mở những chủ đề, định hướng nội dung nghiên cứu. Nội dung nghiên cứu tập trung vào những vấn đề lý luận hoặc thực tiễn thuộc các môn học trong chương trình đào tạo; ưu tiên khuyến khích nghiên cứu những vấn đề thuộc khoa học giáo dục, nhất là đề tài nghiên cứu nhằm tìm kiếm những giải pháp nâng cao hiệu quả chất lượng tự học tập, quản lý rèn luyện của sinh viên. Từ đó sinh viên chủ động tìm kiếm, ấp ủ những ý tưởng khoa học, tên đề tài mà họ cảm thấy tâm đắc, sinh viên có thể tự liên hệ tìm cán bộ, giảng viên hướng dẫn khoa học trong các lĩnh vực chuyên môn phù hợp theo quy định, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu các đề tài khoa học do cán bộ, giảng viên nhà trường thực hiện.

Bốn là: Cần phải lựa chọn được một đội nhóm phù hợp và từ đó thảo luận, tìm ra được một đề tài phù hợp đảm bảo tính vừa sức, ít tốn kém về tài chính, thời gian đi lại trong quá trình thực hiện. Tính vừa sức thể hiện ở việc xác định mục tiêu, đối tượng nghiên cứu phù hợp với nội dung chương trình đào tạo. Kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn giúp sinh viên củng cố kiến thức đã được học ở nhà trường, đi vào từng lĩnh vực cụ thể. Cần sự cân nhắc kỹ lưỡng nhằm tránh những đề tài hay nhưng lại quá sức hoặc dữ liệu cho đề tài đó không được công bố rộng rãi; hoặc lựa chọn những đề tài chỉ vì hay và có sẵn nguồn tư liệu nhưng thật sự không hứng thú. Những điều này dễ dàng dẫn người NCKH đến ngõ cụt trong quá trình làm, hoặc sẽ dừng cuộc chơi, hoặc hoàn thành chỉ để được nộp. Sau đó, cần phân chia nhiệm vụ theo thời gian yêu cầu để hoàn thành đúng tiến độ. Bên cạnh đó, điểm quan trọng nhất là “giữ lửa”, lạc quan, có trách nhiệm mới theo đuổi đề tài được đến cùng.

Một vấn đề rất quan trọng khác là cần nâng cao hiệu quả đầu ra của công tác nghiên cứu bằng việc lựa chọn những đề tài nghiên cứu có tính thực tiễn cao. Thường xuyên tham gia giao lưu, chia sẻ ý kiến về các phương pháp, cách làm hay tại các diễn đàn do Ðoàn Thanh niên, Hội Sinh viên tổ chức.

4. Kết luận

NCKH là một quá trình dài, ở đó, mỗi sinh viên phải được trang bị nền tảng tri thức vững vàng, biết tìm hiểu và đào sâu kiến thức chuyên môn, thực hiện công việc nghiên cứu một cách khoa học, đúng quy trình… để mang lại một đề tài NCKH vừa chặt chẽ về nội dung và đúng đắn về phương pháp. Đề làm được như vậy, Nhà trường và sinh viên cần có một bước đột phá mới, phải trang bị kiến thức về NCKH và tạo môi trường NCKH cho sinh viên ngay từ những năm đầu của chương trình Đại học. Với phương pháp tiếp cận mới đòi hỏi phải có sự đồng thuận và hỗ trợ từ nhiều phía, trong đó Nhà trường đóng vai trò đầu tàu, định hướng cho sự thành công của cả quá trình đào tạo. Sinh viên là trọng tâm của quá trình đào tạo, được tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp các kiến thức cần thiết để thực hành nghiên cứu và hoàn thiện khả năng NCKH. Doanh nghiệp, công ty là đối tượng nghiên cứu, là đối tác để Nhà trường và sinh viên định hướng nghiên cứu, tạo ra những sản phẩm NCKH đúng với chuyên môn và phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội hiện nay

Tin khác

Số người truy cập: 26923415

Trường đại học lao động xã hội

43 Trần Duy Hưng - Trung Hòa - Cầu Giấy - Hà Nội - ĐT :043.5564584 - Fax:043.5564584 In trang này

Giấy phép thiết lập Website trên Internet số 348/GP-BC ngày 23/11/2006 của Cục Báo Chí - Bộ Văn Hóa - Thông Tin.